Lịch sử hoạt động HMS_Hood_(51)

Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Không lâu sau khi được đưa ra hoạt động vào ngày 15 tháng 5 năm 1920, Hood trở thành soái hạm của Hải đội Tuần dương-Thiết giáp thuộc Hạm đội Đại Tây Dương Anh Quốc, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Sir Roger Keyes. Sau một chuyến đi đến vùng biển Scandinavia trong năm đó, Đại tá Hải quân Geoffrey Mackworth nhận quyền chỉ huy con tàu. Hood đã viếng thăm Địa Trung Hải trong những năm 19211922 để biểu dương lực lượng và huấn luyện cùng với Hạm đội Địa Trung Hải trước khi thực hiện một chuyến đi đến BrazilTây Ấn cùng với Hải đội Tàu chiến-tuần dương.[47]

Hood trong cảng Sydney không lâu sau khi cùng các con tàu khác của Hải đội Đặc vụ đến nơi vào ngày 9 tháng 4 năm 1924

Đại tá Hải quân John im Thurn đang nắm quyền chỉ huy con tàu khi Hood, được tháp tùng bởi tàu chiến-tuần dương HMS Repulse và một số tàu tuần dương lớp Danae thuộc Hải đội Tuần dương nhẹ 1, lên đường cho một chuyến đi vòng quanh thế giới từ Tây sang Đông ngang qua kênh đào Panama vào tháng 11 năm 1923. Mục đích của chuyến đi là nhằm nhắc nhở các nước thuộc địa về sự phụ thuộc của họ đối với sức mạnh hải quân của Anh và thuyết phục họ ủng hộ tiền bạc, tàu chiến và các cơ sở phục vụ. Chúng quay trở về nhà mười tháng sau đó vào tháng 9 năm 1924 sau khi đã viếng thăm Nam Phi, Ấn Độ, Australia, New Zealand, CanadaHoa Kỳ cũng như nhiều lãnh thổ tự trị và thuộc địa nhỏ khác dọc theo đường đi.[48] Đang khi ở lại Australia vào tháng 4 năm 1924, Hải đội đã tham gia hộ tống tiễn biệt chiếc tàu chiến-tuần dương Australia của Hải quân Hoàng gia Australia ra biển để đánh đắm nhằm tuân thủ Hiệp ước Hải quân Washington.[49] Hải đội Tàu chiến-tuần dương đã viếng thăm Lisbon vào tháng 1 năm 1925 để tham gia các lễ hội kỷ niệm nhà thám hiểm hàng hải Vasco da Gama trước khi tiếp tục đi đến Địa Trung Hải để tập trận. Hood tiếp tục thực hiện thường lệ chuyến viếng thăm huấn luyện mùa Đông đến Địa Trung Hải cho đến cuối thập niên đó. Đại tá Harold Reinold thay thế cho Đại tá im Thurn vào ngày 30 tháng 4 năm 1925 trong nhiệm vụ chỉ huy con tàu, và đến phiên ông được Đại tá Wilfred French thay phiên vào ngày 21 tháng 5 năm 1927.[50]

Nó trải qua một đợt tái trang bị lớn từ ngày 17 tháng 5 năm 1929 đến ngày 16 tháng 6 năm 1930, rồi sau đó tiếp nối vai trò soái hạm của Hải đội Tàu chiến-tuần dương dưới quyền chỉ huy của Đại tá Julian Patterson. Cuối năm đó thủy thủ đoàn của chiếc tàu chiến đã tham gia cuộc binh biến Invergordon do bị cắt giảm tiền lương của thủy thủ. Sự kiện được kết thúc một cách hòa bình và Hood quay trở về cảng nhà sau đó. Hải đội Tàu chiến-tuần dương tiến hành một chuyến đi đến khu vực biển Caribbe vào đầu năm 1932, và Hood trải qua một đợt tái trang bị ngắn từ ngày 31 tháng 3 đến ngày 10 tháng 5 tại Portsmouth. Đại tá Thomas Binney tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu vào ngày 15 tháng 8 năm 1932 và nó lại tiếp tục chuyến đi huấn luyện mùa Đông đến Địa Trung Hải trong năm tiếp theo. Đại tá Thomas Tower thay phiên cho Đại tá Binney vào ngày 30 tháng 8 năm 1933. Các bộ kiểm soát hỏa lực cho dàn pháo hạng hai và phòng không được tái sắp xếp trong một đợt tái trang bị ngắn từ ngày 1 tháng 8 đến ngày 5 tháng 9 năm 1934.[51]

Trên đường đi Gibraltar trong một chuyến đi đến Địa Trung Hải, Hood đã bị chiếc tàu chiến-tuần dương Renown húc vào phía đuôi bên mạn trái vào ngày 23 tháng 1 năm 1935. Hư hại cho phía Hood chỉ giới hạn ở chân vịt phía ngoài bên mạn trái và một vết lỏm rộng 18 in (460 mm) trên lườn tàu, cho dù một số tấm thép lườn tàu bị bung ra do cú va chạm. Việc sửa chữa tạm thời được tiến hành tại Gibraltar trước khi con tàu lên đường đi Portsmouth để được sửa chữa triệt để từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1935. Hạm trưởng của cả hai con tàu đều bị đưa ra toà án binh cùng với tư lệnh hải đội, Chuẩn đô đốc Sidney Bailey. Cả Tower và Bailey đều được tha bổng, còn chỉ huy của Renown là Đại tá Sawbridge bị cách chức. Tuy nhiên, Bộ Hải quân Anh kháng nghị lại bản án, phục chức cho Sawbridge và phê phán Bailey đã ra tín hiệu không rõ ràng trong lúc cơ động.[52] Con tàu đã tham gia cuộc duyệt binh hạm đội tại Spithead vào tháng 8 tiếp theo nhân kỷ niệm Ngân khánh Đăng quang của Vua George V. Nó được phái đến Địa Trung Hải không lâu sau đó và đặt căn cứ tại Gibraltar khi cuộc Chiến tranh Ý-Abyssinia thứ hai nổ ra vào tháng 10. Đại tá Arthur Pridham tiếp nhận quyền chỉ huy vào ngày 1 tháng 2 năm 1936, và Hood quay trở về Portsmouth cho một đợt tái trang bị ngắn từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 1936. Hood được chính thức điều động về Hạm đội Địa Trung Hải vào ngày 20 tháng 10 không lâu sau khi cuộc Nội chiến Tây Ban Nha nổ ra.[53] Vào ngày 23 tháng 4 năm 1937, nó đã hộ tống cho ba tàu buôn Anh tiến vào cảng Bilbao cho dù có sự hiện diện của tàu tuần dương Almirante Cervera thuộc phe Cộng hòa đang tìm cách phong tỏa cảng.[54] Hood được tái trang bị tại Malta trong tháng 11-tháng 12 năm 1937, khi các ống phóng ngư lôi ngầm của nó được tháo dỡ.[55] Đại tá Pridham được thay phiên bởi Đại tá Harold Walker vào ngày 20 tháng 5 năm 1938, rồi đến lượt ông được luân chuyển khi con tàu quay về Portsmouth vào tháng 1 năm 1939 cho một đợt đại tu kéo dài đến ngày 12 tháng 8.[56]

Những kẻ thù tương lai đang hòa hoãn: HMS Hood (hậu cảnh), HMS Resolution (giữa) và thiết giáp hạm bỏ túi Đức Admiral Graf Spee (tiền cảnh) đang thả neo tại Portsmouth nhân dịp duyệt binh hải quân mừng sinh nhật Vua George VI, tháng 5 năm 1937.

Hood được dự định cho tái cấu trúc rộng rãi vào năm 1941 nhằm nâng lên một tiêu chuẩn tương đương với những tàu chiến chủ lực thời Thế Chiến I được hiện đại hóa. Nó sẽ có các turbine và nồi hơi mới nhẹ hơn, một dàn pháo hạng hai bao gầm tám tháp pháo 5,25 in (133 mm) nòng đôi và sáu khẩu đội 2 pounder "pom-pom" phòng không tám nòng. Một máy phóng sẽ được trang bị ngang qua sàn tàu, trong khi các ống phóng ngư lôi còn lại được tháo dỡ. Tháp chỉ huy cũng sẽ được tháo dỡ và cầu tàu được tái cấu trúc lại.[57] Hoạt động phục vụ tích cực hầu như thường xuyên, với tư cách là tàu chiến chủ lực có khả năng chiến đấu lớn nhất của Hải quân Hoàng gia, đã khiến cho tình trạng vật chất của chiếc tàu chiến-tuần dương bị hư hỏng dần dần, và đến cuối những năm 1930, Hood ở trong tình trạng rất kém và cần được tái trang bị. Việc Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra khiến không thể rút Hood ra khỏi hoạt động thường trực, và vì vậy nó không bao giờ được tái cấu trúc, như được dự định giống như các tàu chiến chủ lực khác của Hải quân Hoàng gia như là Renown và một số chiếc trong lớp thiết giáp hạm Queen Elizabeth.[58] Vào lúc này bộ ngưng tụ hơi nước của con tàu đã ở trong một tình trạng rất kém đến nổi hầu hết nước sạch chiết được phải được dùng để bổ sung cho nước nồi hơi, và không thể dành cho việc tắm rửa của thủy thủ đoàn hoặc ngay cả vào việc sưởi ấm phòng ăn khi thời tiết lạnh vì các ống dẫn hơi nước bị rò rỉ nặng. Những vấn đề này cũng làm giảm công suất hơi nước khiến nó không thể duy trì tốc độ như thiết kế.[59]

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Đại tá Irvine Glennie tiếp nhận quyền chỉ huy vào tháng 5 năm 1939 và Hood được chuyển về Hải đội Tàu chiến-tuần dương thuộc Hạm đội Nhà trong khi còn đang được tái trang bị. Khi chiến tranh nổ ra vào cuối năm đó, nó được sử dụng chủ yếu vào việc tuần tra khu vực chung quanh Icelandquần đảo Faroe để bảo vệ các đoàn tàu vận tải, và ngăn chặn các tàu cướp tàu buôntàu vượt phong tỏa Đức từ Bắc Hải tìm cách thoát ra Đại Tây Dương. Vào ngày 25 tháng 9 năm 1939, Hạm đội Nhà tiến vào Bắc Hải bảo vệ cho chuyến quay trở về của tàu ngầm Spearfish đã bị hư hại. Hạm đội bị phía Đức phát hiện và bị máy bay thuộc các Không đoàn Ném bom KG 26KG 30 tấn công. Hood trúng phải một quả bom 250 kg (550 lb) ném từ một máy bay ném bom Junkers Ju 88 và bị hư hại bầu chống ngư lôi bên mạn trái cùng bộ ngưng tụ hơi nước. Đến đầu năm 1940, tình trạng động cơ của Hood càng tệ hại hơn nữa và nó chỉ có thể di chuyển tối đa được 26,5 hải lý trên giờ (49,1 km/h; 30,5 mph). Nó được tái trang bị từ ngày 4 tháng 4 đến ngày 12 tháng 6.[60]

Chiến dịch Catapult

Hood cùng với tàu sân bay Ark Royal được lệnh đi đến Gibraltar gia nhập Lực lượng H vào ngày 18 tháng 6, nơi Hood đảm trách vai trò soái hạm. Lực lượng H đã tham gia vào việc tiêu diệt Hạm đội Pháp tại Mers-el-Kebir vào tháng 7 năm 1940. Ngày 2 tháng 7, chỉ bảy ngày sau khi Pháp đầu hàng, Bộ Hải quân Anh đưa ra một tối hậu thư cho lực lượng Hạm đội Pháp đang ở tại Oran phải bị chiếm giữ tại một cảng Anh hoặc trung lập nhằm đảm bảo chúng không bị rơi vào tay phe Trục. Các điều kiện đưa ra bị từ chối và Hải quân Hoàng gia bắt đầu nổ súng vào lực lượng Hải quân Pháp đang neo đậu tại đây. Kết quả của màn hỏa lực của Hood không thể biết chính xác, nhưng ít nhất nó đã gây hư hại cho chiếc thiết giáp hạm Pháp Dunkerque vốn đã trúng bốn quả đạn pháo 15 inch và bị buộc phải tự mắc cạn để tránh bị đắm. Bản thân Hood cũng chịu đựng hỏa lực càn quét bắn trả của Dunkerque khiến hai người bị thương. Con tàu chị em với Dunkerque là Strasbourg tìm cách thoát ra khỏi cảng; Hood cùng nhiều tàu tuần dương nhẹ đã truy đuổi, nhưng phải bỏ cuộc hai giờ sau đó vì lo ngại việc truy đuổi vào ban đêm sẽ nguy hiểm do các lực lượng Pháp khác sẽ đến để giúp đỡ cho Strasbourg. Hood đang bị thiếu nhiên liệu, đồng thời Phó đô đốc Lancelot Holland, tư lệnh Lực lượng H, cũng lo ngại về mối đe dọa của tàu ngầm Ý. Hood phải lẩn tránh một loạt ngư lôi phóng từ một tàu xà-lúp Pháp.[61]

Quay về vùng biển nhà

Hood được tàu chiến-tuần dương Renown thay phiên trong vai trò soái hạm Lực lượng H vào ngày 10 tháng 8 sau khi quay trở về Scapa Flow. Vào ngày 13 tháng 9, sau một đợt tái trang bị ngắn, nó được gửi đến Rosyth cùng với các thiết giáp hạm HMS NelsonHMS Rodney và các tàu chiến khác, chiếm lĩnh những vị trí thuận tiện có thể ngăn chặn một hạm đội Đức xâm lược. Khi nguy cơ bị đổ bộ không còn, Hood tiếp nối vai trò trước đây trong việc hộ tống đoàn tàu vận tải và tuần tra chống các tàu cướp tàu buôn Đức. Hai lần Hood được phái đi đối đối đầu với tàu chiến đối phương. Vào ngày 28 tháng 10, nó lên đường để ngăn chặn thiết giáp hạm bỏ túi Admiral Scheer, rồi một lần nữa vào ngày 24 tháng 12, để truy tìm tàu tuần dương hạng nặng Admiral Hipper, cả hai lần Hood đều không tìm thấy đối thủ. Từ tháng 1 năm 1941 con tàu trải qua một đợt tái trang bị tại Rosyth. Ngay cả sau đợt tái trang bị này, tình trạng vật chất của nó vẫn rất kém, nhưng mối đe dọa từ các tàu chiến chủ lực Đức lớn đến mức không thể đưa nó vào ụ tàu thực hiện một cuộc đại tu thực sự, cho đến khi có thêm những thiết giáp hạm lớp King George V được đưa vào hoạt động. Đại tá Ralph Kerr tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu trong khi nó đang tái trang bị, và Hood được lệnh nhổ neo trong một nỗ lực đánh chặn các thiết giáp hạm Đức GneisenauScharnhorst sau khi việc tái trang bị hoàn tất vào giữa tháng 3. Không thành công, nó được lệnh tuần tra khu vực vịnh Biscay ngăn chặn mọi con tàu Đức thoát ra từ Brest. Hood lại được lệnh đi đến vùng biển Na Uy vào ngày 19 tháng 4 khi Bộ Hải quân Anh nhận được một báo cáo nhầm rằng thiết giáp hạm Bismarck đã khởi hành từ Đức. Sau đó nó tuần tra trong vùng Bắc Đại Tây Dương cho đến khi trở về Scapa Flow vào ngày 6 tháng 5.[62]

Trận chiến eo biển Đan Mạch

Tấm ảnh cuối cùng của HMS Hood đang đi đến điểm gặp gỡ Bismarck nhìn từ chiếc Prince of Wales.Tranh vẽ mô tả HMS Prince of Wales đang bẻ lái để tránh HMS Hood đang chìm.Cái chết của HMS Hood; một đám mây khói bao phủ bên trên vị trí của nó, ngay sau khi con tàu phát nổ

Khi Bismarck, có tàu tuần dương hạng nặng Prinz Eugen tháp tùng, lên đường tham gia Chiến dịch Rheinübung với mục tiêu tiến ra Đại Tây Dương vào tháng 5 năm 1941, Hood cùng với thiết giáp hạm Prince of Wales vừa mới được đưa vào hoạt động được gửi đi truy đuổi, cùng với nhiều nhóm tàu chiến chủ lực Anh khác nhằm tiêu diệt các con tàu Đức trước khi chúng tiến ra Đại Tây Dương tấn công các đoàn tàu vận tải Đồng Minh. Hood được đặt dưới sự chỉ huy của Đại tá Ralph Kerr và treo cờ hiệu của Phó Đô đốc Lancelot Holland. Khi các con tàu Đức bị hai tàu tuần dương hạng nặng trang bị radar HMS SuffolkNorfolk phát hiện vào ngày 23 tháng 5, các tàu chiến dưới quyền Holland được tung ra đối đầu tại eo biển Đan Mạch, giữa GreenlandIceland, vào ngày 24 tháng 5.[63]

Phó Đô đốc Holland dự định tiếp cận Bismarck và Prinz Eugen theo một hướng đi hội tụ đối đầu. Kế hoạch này mang nhiều ưu thế quyết định. Trên tất cả, nó cho phép Hood và Prince of Wales rút ngắn khoảng cách với lực lượng Đức ở vận tốc kết hợp chung khoảng 50 knot, sẽ làm giảm đáng kể thời gian mà sàn tàu bọc thép yếu kém của Hood phải phơi ra trước đạn pháo bắn tới từ dàn pháo chính của Bismarck, chỉ bộc lộ ra mạn tàu vốn được bảo vệ thích đáng hơn. Bộ Hải quân Anh biết rõ điểm yếu của lớp vỏ giáp sàn tàu trên chiếc Hood. Điều này cũng có nghĩa là Hood sẽ đối đầu với hải đội Đức ngay lúc bình minh (khoảng 02 giờ 00 ở Bắc Cực vào tháng 5) và được hưởng lợi khi xuất hiện từ trong bóng tối để bắt gặp các tàu chiến Đức với hình bóng nổi rõ trên nền ánh sáng rạng đông. Một ưu thế khác là họ không chỉ gây bất ngờ cho lực lượng Đức khi hải đội của Holland tiếp cận từ phía Nam, mà còn cho phép một cuộc chiến vào ban đêm. Hải quân Hoàng gia Anh vào thời đó rất thành thạo trong các hoạt động tác chiến ban đêm, họ được huấn luyện trong những năm giữa hai cuộc thế chiến trong nỗi ám ảnh của việc để Hạm đội Biển khơi Đức thoát đi trong đêm sau trận Jutland. Có thể rằng Holland cũng dự định để lực lượng của Đô đốc Frederic Wake-Walker, đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Norfolk, đối đầu riêng lẻ với hải đội Đức cũng như các tàu khu trục của chính Holland, để thu hút và phân tán sự chú ý của đối phương. Dù sao Holland chưa bao giờ thể hiện ý định này, e ngại rằng việc liên lạc sẽ bộc lộ sự hiện diện của mình.[64]

Tuy nhiên, hai chiếc Suffolk và Norfolk, vốn đã theo dõi Bismarck và Prinz Eugen từ 19 giờ 15 phút ngày 23 tháng 5, lại mất dấu Bismarck từ khoảng nữa đêm cho đến 02 giờ 47 phút ngày 24 tháng 5.[65] Trong thời gian này, ở khoảng cách không quá 16 km (10 dặm), hải đội Đức đã vượt qua hải đội Anh khiến cho kế hoạch của Holland không thể thực hiện. Điều này đã đưa đến một hậu quả thảm khốc. Khi sự tiếp xúc với đối phương được tái lập, Holland không còn nhiều lựa chọn nhưng phải đuổi theo phía sau hải đội Đức. Hơn nữa, Holland lại cho các tàu khu trục hộ tống của mình tách ra vào lúc mất dấu vết để truy lùng lực lượng Đức; các tàu khu trục này đã không thể quay trở lại trận chiến kịp lúc, cho đến lúc đã quá trễ không làm được điều gì ngoại trừ việc trợ giúp cho những người còn sống sót. Khi hai đối thủ gặp nhau ngay trước 06 giờ 00, Hood tiếp cận Bismarck trên cùng hướng đi trên hai hải trình gần như song song, làm gia tăng đáng kể thời gian mà sàn tàu yếu kém của nó phải phơi ra trước đạn pháo bắn tới từ Bismarck. Holland không sẵn lòng hướng mũi tàu của mình trực tiếp các con tàu Đức để rút ngắn khoảng cách, vì sẽ cho phép Bismarck và con tàu tùy tùng bắn toàn bộ hỏa lực qua mạn tàu, trong khi Holland chỉ có thể sử dụng các tháp pháo phía trước của Hood. Một điểm cũng gây nhiều tranh cãi, khi Holland chọn chiếc Hood làm đội tiên phong dẫn đầu đội hình của mình thay vì để cho Prince of Wales đi trước, và vì vậy sẽ chịu đựng gánh nặng hỏa lực pháo Đức bắn tới trên lớp vỏ giáp sàn tàu chắc chắn hơn.[66]

Hải đội Anh trông thấy các con tàu Đức lúc 05 giờ 37 phút[Note 3][67] nhưng phía Đức đã nhận biết sự hiện diện của chúng từ trước; máy dò âm dưới nước của Prinz Eugen trước đó đã phát hiện âm thanh của chân vịt tốc độ cao xuất phát từ hướng Đông Nam. Chuẩn đô đốc Günther Lütjens, chỉ huy hải đội Đức, phải đối mặt với một tình thế khó xử trên chiếc Bismarck. Ông được lệnh chỉ đối đầu với những tàu buôn đối phương chứ không phải tàu chiến, không nói đến những tàu chiến chủ lực. Bismarck có thể chạy nhanh hơn các tàu hạng nặng đối phương, nhưng đang ở gần các rìa băng, và các tàu tuần dương hạng nặng đối phương dõi theo phía sau bên mạn phải. Ông không có nhiều lựa chọn nhưng buộc phải tham chiến. Do việc mất dấu vào đêm hôm trước, giờ đây Hood và Prince of Wales tiếp cận đối phương từ một góc mà chỉ có hai tháp pháo phía trước có thể ngắm vào mục tiêu, vì cấu trúc thượng tầng của chính chúng đã che khuất các tháp pháo phía sau. Ngược lại Bismarck và Prinz Eugen lại có thể hướng mọi khẩu pháo chính của chúng vào đối thủ khi trận chiến bắt đầu.[68]

Phía Anh khai hỏa lúc 05 giờ 52 phút. Thoạt tiên Hood nhắm vào Prinz Eugen, chiếc dẫn đầu trong đội hình, và phía Đức bắn trả lúc 05 giờ 55 phút, cả hai đều tập trung hỏa lực nhắm vào Hood. Prinz Eugen có thể là chiếc đầu tiên đã bắn trúng đích, khi một quả đạn pháo 203 mm (8 inch) bắn trúng sàn chứa xuồng giữa các ống khói, gây ra một đám cháy lớn và làm kích nổ đạn pháo 102 mm (4 inch) và rocket UP đang dự trữ tại đây.[69] Khoảng trước 06 giờ 00, Holland ra lệnh "2 blue", một cú bẻ lái 20° sang mạn trái nhằm đưa các khẩu pháo sau đuôi của Hood có thể ngắm vào Bismarck.[70]

Vào khoảng 06 giờ 00 (06 giờ 01 phút theo giờ phía Đức), khi Hood đang trong quá trình bẻ lái 20° sang mạn trái, nó lại bị bắn trúng một hay nhiều phát từ loạt đạn pháo thứ năm của Bismarck, được bắn từ khoảng cách 16.650 mét (18.210 yd).[71][Note 4] Một quả đạn pháo của loạt đạn này có lẽ đã bắn trúng tháp quan sát vì sàn chứa xuồng đã chịu đựng một cơn mưa mảnh vụn và xác người.[72] Hầu như ngay lập tức, một luồng lửa khổng lồ bùng lên từ chiếc Hood ngay cánh cột ăn-ten chính,[Note 5][73] rồi được tiếp nối bằng một vụ nổ dữ dội phá hủy toàn bộ phần sau của con tàu. Phần đuôi của Hood nhô cao rồi chìm nhanh chóng, cảnh tượng cuối cùng là phần mũi của nó cũng hướng lên khỏi mặt biển gần như thẳng đứng, rồi chìm theo.[71] Một ghi chú của một người sống sót lưu giữ tại Chi nhánh Lịch sử của Tàng thư Hải quân Hoàng gia Anh cung cấp tọa độ 63°20′B 31°50′T / 63,333°B 31,833°T / 63.333; -31.833 như là vị trí con tàu bị chìm.

Trong tổng số 1.418 thành viên thủy thủ đoàn, chỉ còn lại ba người: Ted Briggs (1923-2008), Robert Ernest Tilburn (1921-1995) và William John Dundas (1921-1965) sống sót;[74][Note 6] họ được cứu vớt khoảng hai giờ rưỡi sau đó bởi tàu khu trục HMS Electra. Electra phát hiện nhiều mảnh vụn, nhưng không thấy xác người.[75]

Diễn biến tiếp theo

Prince of Wales bị buộc phải tách ra khỏi trận chiến do cả hư hại bởi pháo Đức bắn trúng lẫn những hư hỏng cơ khí của pháo và tháp pháo sau khi Hood bị chìm. Mặc dù có những vấn đề, nó vẫn bắn trúng Bismarck ba lần. Một trong những phát bắn trúng đã làm nhiễm bẩn phần lớn nhiên liệu dự trữ của Bismarck, buộc nó sau đó phải chuyển hướng về vùng an toàn thuộc khu vực chiếm đóng tại Pháp, nơi nó có thể được sửa chữa. Bismarck tạm thời thoát khỏi bị theo dõi, nhưng lại bị phát hiện sau đó và bị lực lượng áp đảo của Anh đánh chìm vào ngày 27 tháng 5.[76]

Bản thông cáo chính thức của Bộ Hải quân Anh, được phát ra liền ngay trong ngày chiếc tàu chiến bị đánh chìm, cho biết: "Trong hoạt động tác chiến..., HMS Hood … rủi ro trúng phải một quả đạn pháo vào hầm đạn và đã nổ tung." [77] Ủy ban Điều tra chính thức thứ nhất về việc tổn thất của con tàu, do Phó Đô đốc Sir Geoffrey Blake làm chủ tịch, đã đưa ra bản báo cáo chính thức vào ngày 2 tháng 6, chưa đầy hai tuần sau khi con tàu bị đánh chìm. Nó xác nhận giả thiết ban đầu này, khẳng định rằng:

(c) Nguyên nhân có thể dẫn đến việc bị mất chiếc HMS Hood là sự xâm nhập trực tiếp qua lớp vỏ giáp bảo vệ bởi một hay nhiều quả đạn pháo 15 inch bắn từ khoảng cách 16.500 yard (15 km), đưa đến việc phát nổ một hay nhiều hầm đạn phía sau của con tàu.[78]

Tuy nhiên, công việc của ủy ban điều tra ban đầu này trở thành đề tài của sự phê phán, chủ yếu là do không giữ lại lời khai của những người được chứng kiến tận mắt. Hơn nữa, Giám đốc Chế tạo Hải quân (DNC: Director of Naval Construction), Sir Stanley Goodall, còn đưa ra một giả thuyết khác rằng Hood bị phá hủy do vụ nổ bởi ngư lôi của chính nó. Kết quả là một Ủy ban Điều tra thứ hai được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Chuẩn Đô đốc Sir Harold Walker, và đưa ra bản báo cáo cuối cùng vào tháng 9 năm 1941.[79] Công việc điều tra lần này "cẩn thận và tỉ mỉ hơn lần thứ nhất rất nhiều, thu thập chứng cứ của tổng cộng 176 người từng tận mắt chứng kiến thảm họa",[80] có khảo sát cả giả thuyết của Goodall lẫn những giả thuyết khác (xem bên dưới). Nhưng cuối cùng Ủy ban điều tra thứ hai cũng đi đến một kết luận hầu như tương tự như với Ủy ban thứ nhất, khi cho rằng:

Việc chiếc Hood bị chìm là do trúng phải một phát đạn pháo 15 inch từ chiếc Bismarck, ở ngay hoặc sát bên cạnh hầm đạn 4 inch hay 15 inch của chiếc Hood, khiến chúng đều phát nổ và hủy diệt phần phía sau của con tàu. Nhiều khả năng là hầm đạn 4 inch đã phát nổ trước.[79]

Cả hai ủy ban điều tra đều miễn trừ cho Phó Đô đốc Holland mọi trách nhiệm về việc tổn thất của chiếc Hood.[81]

Đài tưởng niệm dành cho những người đã tử trận được dựng lên trong khắp nước Anh, một số được tưởng nhớ ở nhiều nơi khác nhau. Một thành viên như vậy, George David Spinner,[82] được ghi nhớ tại Đài tưởng niệm Hải quân Portsmouth,[83] Nhà nguyện Chapel thuộc Nhà thờ St John the Baptist, tại Boldre thuộc Hampshire, đồng thời trên bia mộ của người em trai, vốn đã tử trận khi phục vụ cùng Không quân Hoàng gia Anh vào năm 1942, tại Nghĩa trang Hamilton Road, Deal, Kent..[84]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: HMS_Hood_(51) http://www.ascension-island.gov.ac/virtualtour/cro... http://www.heritage.org.ac/avis10.htm http://www.hmshood.com/ http://www.hmshood.com/admin/faq.htm#faq8 http://www.hmshood.com/crew/memorial/index.htm http://www.hmshood.com/crew/memorial/s/SpinnerGD.h... http://www.hmshood.com/history/construct/design.ht... http://www.hmshood.com/history/denmarkstrait/index... http://www.hmshood.com/hoodtoday/2001expedition/in... http://www.hmshood.com/hoodtoday/Lid.jpg